BÀN VỀ NHÀ TRIỆU
(207 TCN - 111 TCN)
1.
Sơ lược về nhà triệu
Nhà Triệu (207TCN
– 111 TCN) bao gồm năm đời vua:
-
Vũ Đế, tên húy Triệu Đà: ở
ngôi 71 năm [207 - 136 TCN], thọ 121 tuổi [256 - 136 TCN].
-
Văn Vương, tên húy Triệu Hồ: ở
ngôi 12 năm [137 TCN-124 TCN], thọ 52
tuổi. Ông là con trai của Trọng Thủy.
-
Minh Vương, tên húy Triệu An
Tề: ở ngôi 12 năm [124 TCN-113 TCN]
-
Ai Vương, Triệu Hưng: ở ngôi
1 năm [113 TCN-112 TCN]
-
Thuật Duật Vương, Triệu Kiến
Đức: ở ngôi một năm [112 TCN-111 TCN]
Cuối thế
kỷ thứ ba trước Tây lịch, Tần Thủy Hoàng chết, nhà Tần hỗn loạn, các thế lực
cát cứ nổi lên tranh giành quyền lực. Năm 210 TCN, Nhâm Ngao và Triệu Đà manh
quân xâm lấn Âu Lac. Sau Ngao chết nhường quyền cho Đà. Đến năm 207 trước Tây lịch,
Triệu đà thôn tính xong Âu Lạc. Thời điểm này, ở phương bắc Lưu Bang đã thống
nhất được Trung Hoa lập ra nhà Hán, xét thấy mình không thể cạnh tranh Đà chấp
nhận an phận tại đát Âu Lạc. Sau khi thôn tính Âu Lạc, Triệu đà lập ra nước Nam
Việt, xưng đế lấy hiệu Vũ Vương. Từ đó Nhà Triệu cai trị Việt Nam trong 97 năm (207TCN
– 111 TCN).
2.
Bàn về nhà triệu trong hệ thống sử sách Việt Nam.
Trong hệ thống chính sử Việt
Nam, chia làm hai quan điểm về triều đại Nhà Triệu:
·
Quan điểm thứ nhất: Trong tất
cả các bộ sử chính thống Việt Nam thời phong kiến trước thế kỷ XVIII đều coi Nhà
Triệu là một triều đại phong kiến chính thống ở nước ta. Bởi vì họ Triệu cai trị
Nam Việt độc lập với nhà Hán cho tới tận năm 111 TCN, khi các đội quân nhà Hán
xâm lược đất nước này và sáp nhập nó vào đế chế Hán thành bộ Giao Chỉ. Trong Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, các sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sỹ Liên có nhận xét về Triệu
Đà:
-
Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử
thì không thành phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có
Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng
là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền
trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi
trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà
thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta
mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu",
mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người
làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập
việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn
giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được.
-
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Truyện [Trung Dung] có câu:
"Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". [Vũ] Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì
Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ
ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh
em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu
được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư?
Kinh Dịch nói: "Biêt khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp
mà không ai dám vượt qua". Vua
chính hợp câu ấy.
Theo quan điểm này, thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi quân Hán tấn công
Nam Việt
·
Quan điểm thứ hai: Từ cuối
thế kỷ thứ XVIII, quan điểm công nhận nhà Triệu là một chiều đại chính thống của
Việt Nam bị các sử gia phê phán trong hầu hết các bộ sử ký như Việt Sử tiêu án,
Đại Việt Sử Ký Tiền Biên. Người đầu tiên tiêu biểu nhất là sử gia Ngô Thì Sỹ
trong Việt Sử Tiêu Án:
An Dương Vương mất nước, để
quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: "Kỷ Triệu Vũ Đế". Người đời
theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm
không phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi phát ở Long
Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc
quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là
đã làm vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi
ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng
cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính
nước Thục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta
cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc
để phân biệt với nội thuộc vậy.
Quan điểm này được tiếp nối bởi sử gia Đào Duy Anh trong thế kỷ 20,
và hiện nay các sách lịch sử trong nền giáo dục tại Việt Nam đều theo quan điểm
này.
Theo quan điểm thứ hai này thì thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 208 TCN khi nhà Triệu đánh chiếm nước nước Âu Lạc của An Dương Vương
Theo quan điểm thứ hai này thì thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 208 TCN khi nhà Triệu đánh chiếm nước nước Âu Lạc của An Dương Vương
3.
Quan điểm tác giả:
Sau khi đọc các bộ sử: Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Tiêu Án và Đại Việt Sử Ký Tiền Biên cũng như được học
qua các sách giáo khoa lịch sử trong trường trình phổ thông của Việt Nạm, tôi ủng
hộ quan điểm thứ nhất. Bởi lẽ:
Thứ nhất, xâm lược
được hiểu là một quốc gia mang quân xâm lấn nước ta rồi biến nước ta thành thuộc
địa hay thành một bộ phận địa lý, còn bộ máy chinh quyền cai trị thì vẫn đặt ở
chính quốc. Ví dụ, như Nhà Hán xâm lược biến nước ta thành quận giao chỉ bắt đầu
ngàn năm Bắc Thuộc. Còn Nhà Triệu ở đây là một lực lượng cát cứ từ Trung Quốc
sang xâm lấn Âu Việt ta rồi ở lại cai trị lập thành quốc gia Nam Việt độc lập tự
chủ với nhà Hán.
Thứ hai, Nếu coi
Nhà Triệu của Triệu Đà là quân xâm lược thì sử sách Việt Nam cũng phải làm thế
đối với Nhà Thục của An Dương Vương – Thục Phán. Bởi vì có quan điểm cho rằng
Thục Phán là hậu duệ của Vua nước Thục thời chiến quốc bên Trung Hoa, sau khi
nhà tần thâu tóm các nước chạy về đất Nam Kinh, Trung Quốc. Thiết nghĩ quan điểm
này chính xác hơn quan điểm của sử học chính thống ở Việt Nam hiện nay coi Thục
Phán là trưởng tộc bộ lạc Âu Việt, sống xen kẽ với bộ tộc Lạc Việt của Vua
Hùng. Nhưng nếu coi như thế thì không hề ổn chút nào. Cho tới thời hai Bà Trưng
sau thời này 2,5 thế kỷ thì người Việt ta chưa hề có họ, họ chỉ sống theo kiểu
bày đàn nguyên thủy có tổ chức, có tộc trưởng. Như thế lấy Đâu ra họ thục với một
bộ lạc nguyên thủy như Âu Việt. Vì thế Âu Việt không thể là một lực lượng của đất
Việt ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét